head_banner

Tin tức

Lịch sử phát triển của thiết bị nội soi

Nội soi là một công cụ phát hiện tích hợp quang học truyền thống, công thái học, máy móc chính xác, điện tử hiện đại, toán học và phần mềm. Nó dựa vào sự hỗ trợ của nguồn sáng để đi vào cơ thể con người thông qua các khoang tự nhiên như khoang miệng hoặc các vết mổ nhỏ được thực hiện trong quá trình phẫu thuật, giúp các bác sĩ quan sát trực tiếp các tổn thương mà tia X không thể nhìn thấy. Đây là công cụ thiết yếu để kiểm tra nội tạng và phẫu thuật tốt cũng như điều trị xâm lấn tối thiểu.

Sự phát triển của máy nội soi đã trải qua hơn 200 năm và sớm nhất có thể bắt nguồn từ năm 1806, Philipp Bozzini người Đức đã tạo ra một dụng cụ bao gồm nến làm nguồn sáng và thấu kính để quan sát cấu trúc bên trong bàng quang và trực tràng của động vật. Mặc dù điều này không được sử dụng trong cơ thể con người, Bozzini đã mở ra kỷ nguyên của ống nội soi cứng và do đó được ca ngợi là người phát minh ra máy nội soi.

ống nội soi được phát minh bởi Phillip Bozzini

Trong gần 200 năm phát triển, máy nội soi đã trải qua bốn cải tiến lớn về cấu trúc, từống nội soi cứng đầu tiên (1806-1932), máy nội soi bán cong (1932-1957) to máy nội soi sợi (sau 1957), và bây giờ đếnnội soi điện tử (sau 1983).

1806-1932:Khiống nội soi cứnglần đầu tiên xuất hiện, chúng là loại trực tiếp, sử dụng phương tiện truyền ánh sáng và sử dụng nguồn ánh sáng nhiệt để chiếu sáng. Đường kính của nó tương đối dày, nguồn sáng không đủ và dễ bị bỏng, khiến người kiểm tra khó chịu đựng và phạm vi ứng dụng của nó hẹp.

ống nội soi cứng

1932-1957:Máy nội soi bán congnổi lên, cho phép phạm vi kiểm tra rộng hơn thông qua mặt trước cong. Tuy nhiên, họ vẫn cố gắng tránh những nhược điểm như đường kính ống dày hơn, nguồn sáng không đủ và bỏng ánh sáng nhiệt.

Máy nội soi bán cong

1957-1983: Sợi quang bắt đầu được sử dụng trong hệ thống nội soiỨng dụng của nó cho phép máy nội soi có thể uốn cong tự do và có thể được sử dụng rộng rãi trong nhiều cơ quan khác nhau, cho phép người kiểm tra phát hiện các tổn thương nhỏ hơn một cách linh hoạt hơn. Tuy nhiên, đường truyền cáp quang dễ bị đứt, độ phóng đại hình ảnh trên màn hình hiển thị không đủ rõ ràng, và hình ảnh thu được không dễ lưu. Nó chỉ dành cho người kiểm tra xem.

nội soi sợi

Sau năm 1983: Với sự đổi mới của khoa học và công nghệ, sự xuất hiện củanội soi điện tửcó thể nói đã mang đến một cuộc cách mạng mới. Điểm ảnh của máy nội soi điện tử không ngừng được cải thiện, hiệu ứng hình ảnh cũng chân thực hơn, trở thành một trong những máy nội soi phổ biến hiện nay.

Sự khác biệt lớn nhất giữa máy nội soi điện tử và máy nội soi sợi là máy nội soi điện tử sử dụng cảm biến hình ảnh thay vì chùm hình ảnh sợi quang ban đầu. Cảm biến hình ảnh CCD hoặc CMOS của máy nội soi điện tử có thể nhận ánh sáng phản xạ từ bề mặt mặt nạ trong khoang, chuyển đổi ánh sáng tín hiệu thành tín hiệu điện, sau đó lưu trữ và xử lý các tín hiệu điện này thông qua bộ xử lý hình ảnh, cuối cùng truyền chúng đến hệ thống hiển thị hình ảnh bên ngoài để xử lý, bác sĩ và bệnh nhân có thể xem trong thời gian thực.

Sau năm 2000: Nhiều loại máy nội soi mới và các ứng dụng mở rộng của chúng đã xuất hiện, tiếp tục mở rộng phạm vi kiểm tra và ứng dụng của máy nội soi. Các loại máy nội soi mới được đại diện đặc biệt bởimáy nội soi viên nang không dây y tếvà các ứng dụng mở rộng bao gồm máy nội soi siêu âm, công nghệ nội soi băng hẹp, kính hiển vi đồng tiêu laser, v.v.

viên nang nội soi

Với sự đổi mới không ngừng của khoa học và công nghệ, chất lượng hình ảnh nội soi cũng có bước nhảy vọt về chất. Việc ứng dụng nội soi y tế trong thực hành lâm sàng ngày càng trở nên phổ biến và không ngừng hướng tớithu nhỏ,đa chức năng,Vàchất lượng hình ảnh cao.


Thời gian đăng: 16-05-2024